Thứ Tư, 22 tháng 7, 2009

Buồn

Tôi từng thấy Richard ngồi trầm ngâm một mình, dựa lưng trên chiếc ghế nệm xanh trong văn phòng... lúc ấy mọi người về hết cả, khoảng 7 giờ hơn sau 1 ngày làm việc... Đó là lúc anh sắp rời xa Electrolux Việt Nam, ...

Có nhiều lý do để người ta nghỉ việc. Có nhiều thứ phải nghĩ đến khi quyết định ra đi hay ở lại một công ty và gắn bó với nó... Câu chuyện dài của những người làm thuê chúng ta... Và, dù lý do là gì, thì... khoảnh khắc chia tay, dường như không khác chút nào. Chia tay hay là chia ly, buộc xa lìa những điều vốn đang dần trở nên thân thuộc, ... ngoảnh mặt đi, mọi thứ để lại phía sau, chẳng đọng lại gì nữa.....

Tôi lại một lần nữa ép mình đối diện với cuộc chia xa.....
Họ, dù là đồng nghiệp mà thôi, tôi ghét họ, hay yêu thương họ, có trời mà biết... Làm việc sao mà ko có lúc "tổn thương" lẫn nhau! Nhưng, tôi dường không ghét ai cả. Nhất là lúc này, khi chỉ còn vỏn vẹn 2 ngày nữa thôi, sẽ không còn nhìn thấy nhau nữa. Cảm xúc khó tả nghẹn ngào, lắm lúc chừng bật khóc và thét hỏi: tại sao mình lại quyết định ra đi? sao không ở lại? trong lúc tình cảm của mọi người đang vui vẻ, gắn bó là vậy? Nộp đơn mà chẳng bàn tính với ai, chỉ thông báo khi mọi sự đã gần như fixed... Tôi từng nghĩ mình ghét Vf vô cùng, nên chi là, đi là việc mừng, có gì phải bận lòng.... Không phải như vậy, thật sự không phải vậy, tấm lòng đứa con gái như vỡ tan và hôm nay nó chẳng làm gì nữa cả. Tôi đã làm gần như xong hết các việc đang còn tồn tại... giờ ngồi đây, cũng tựa ghế và ngẫm nghĩ, thấy lòng nặng trĩu, tâm tư lung lạc buồn nỗi buồn chẳng thể diễn tả... giống như là mọi thứ trong lòng bàn tay, bất chợt nghiêng đổ rơi cả ra ngoài... tự nhiên cảm thấu được điều Richard từng cảm nhận ...

Bỗng dưng muốn khóc... có 1 bài hát như thế... Tôi có thể khóc được?

Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2009

Sales Kit

Sales kit hay còn gọi là bộ hồ sơ hỗ trợ bán hàng.
Nói một cách đơn giản thì khi bạn gặp một khách hàng để giới thiệu sản phẩm công ty (thường gọi là chào hàng hoặc show hàng) bạn cần phải có một bộ hồ sơ hỗ trợ bạn thuyết phục khách hàng trong quá trình bán hàng. Bên cạnh đó, khi kết thúc buổi gặp mặt thì sales kit sẽ trở thành một tài liệu cung cấp một cách đầy đủ thông tin về sản phẩm dịch vụ của bạn. Từ đó nâng cao cơ hội bán hàng của bạn và khuếch trương hình ảnh thương hiệu của bạn.

Một bộ sales kit thường bao gồm (tất nhiên là tùy từng ngành hàng sản phẩm/ dịch vụ):

1. Folder: một bìa hồ sơ để kẹp tất cả các tài liệu hỗ trợ bán hàng của bạn bao gồm cả danh thiếp của nhân viên sales đó.

2. Brochure: một dạng tài liệu tóm tắt các thông tin về công ty và sản phẩm/ dịch vụ của bạn đang cung cấp. Bạn sẽ đưa brochure ra cho khách hàng sau khi đã chào hỏi và thăm dò ý khách hàng.

3. Leaflet (booklet): Đây là một dạng tài liệu cung cấp thông tin thật chi tiết về một chủng loại sản phẩm/ dịch vụ của bạn. Thường thì tài liệu này thường được tách ra thành từng tờ (cuốn) riêng cho từng sản phẩm/ dịch vụ cụ thể. Thử tưởng tượng công ty bạn cung cấp 20-30 sản phẩm /dịch vụ. Tuy nhiên khách hàng chỉ quan tâm 1-2 sản phẩm/ dịch vụ cụ thể. Nên nếu đóng thành cuốn giới thiệu chị tiết các sản phẩm/ dịch vụ thì sẽ không cần thiết cho khách hàng mà còn làm chi phí in ấn của bạn tăng vọt. Đối với sản phẩm/ dịch vụ của bạn có giá thành không bị dao động trong thời gian dài thì bạn cũng có thể cung cấp giá ngay trên leaflet (booklet) này. Tuy nhiên sản phẩm/dịch vụ của bạn thay đổi giá liên tục do thị trường hay chiến lược kinh doanh thì bạn nên có một bảng giá riêng.

4. Bảng giá: cung cấp danh sách giá cho tất cả sản phẩm/ dịch vụ của bạn. Để giảm thiểu chi phí, tài liệu này bạn có thể in trắng đen cũng được, vì giá sẽ được cập nhật liên tục. Còn nếu bạn in màu được thì quá tốt.

5. Đơn đặt hàng (hợp đồng mẫu): Biết đâu bạn bán được ngay lần gặp đầu tiên thì sao, why not?

6. Các tài liệu quảng bá khác: thông tin chương trình khuyến mãi, sản phẩm mới, chương trình chiết khấu, voucher,,,

7. Sản phẩm mẫu: thường áp dụng cho công ty kinh doanh sản phẩm và thường rơi vào tình huống bạn chủ động đến gặp khách hàng và biết được khách hàng đang quan tâm đến sản phẩm nào để chuẩn bị mẫu.

8. Máy tính: biết đâu bạn trình bày cho khách hàng bằng máy tính cá nhân.

Cơ bản như vậy có lẽ tạm đủ, tuy nhiên sẽ tùy vào loại hình kinh doanh của công ty bạn mà sẽ có phát sinh thêm những tài liệu hỗ trợ bán hàng khác.

Một điều quan trọng nữa, bạn nên thiết kế bộ sales kit này như là một phần của hệ thống nhận diện thương hiệu của bạn. Toàn bộ theme chủ đạo của Sales kit sẽ tuân thủ theo brand guideline của bạn để một khi khách hàng của bạn cầm bất cứ tài liệu nào trong bộ sales kit từ folder đến các leaflet,,, đều biết đó là sản phẩm của công ty bạn.

Bên cạnh chức năng hỗ trợ bán hàng, sales kit có thể là công cụ đắc lực cho việc quảng bá hình ảnh thương hiệu bạn đến với khách hàng mục tiêu. Mình tin chắc là bạn sẽ tự tin lên rất nhiều nếu bạn có trong tay một bộ sales chuyên nghiệp. Và việc thuyết phục khách hàng sẽ trở nên rất dễ dàng.

Để có một bộ Sales Kit ấn tượng và hiệu quả bạn có thể tham khảo gói dịch vụ thiết kế Sales Kit tại đây.(Theo Blog.timnhanh.com)

Thứ Tư, 17 tháng 6, 2009

NPP Bánh kẹo

Bibica và Kinh đô hiện nay đã có NPP và nhân viên bán hàng collect đơn hàng từ Outlet về cho NPP. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng về mặt kỹ thuật chưa bằng NPP của Unilever vd: Máy PDA, hệ thống quản lý thông tin...

NPP của 2 hãng này không hoàn toàn là độc quyền, vì có phân phối một số mặt hàng bánh kẹo của địa phương.

Kinh đô 70% thị phần về bánh. Bibica mạnh về kẹo. Phạm Nguyên mới mạnh lên 2 năm gần đây, do ekip của Kinh đô về và gầy dựng, sau này ekip này nghỉ, nên cũng tạm dừng lại 1 thời gian. Oishi bánh snack mạnh.

Draft food nhỏ, focus vào thị trường HCM và HN, đối tượng thu nhập cao.

Orion bánh cao cấp. Lotte nhập khẩu. Hải Hà của Hà Nội, ko mạnh bằng Hải Châu.

Thứ Ba, 16 tháng 6, 2009

Các vấn đề với CPI

Do sử dụng giỏ hàng hoá cố định nên khi tính toán CPI có ba vấn đề chính dẫn đến hạn chế của CPI sau đây:

1. CPI không phản ánh được độ lệch thay thế vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định. Khi giá cả một mặt hàng này tăng nhanh hơn so với các mặt hàng khác thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng ít tiêu dùng những mặt hàng đã trở nên quá đắt đỏ mà tiêu dùng nhiều những hàng hoá đỡ đắt đỏ hơn. Yếu tố này làm CPI đã đánh giá cao hơn thực tế mức giá.

2. CPI không phản ánh được sự xuất hiện của những hàng hoá mới vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong khi nếu có hàng hoá mới xuất hiện thì một đơn vị tiền tệ có thể mua được các sản phẩm đa dạng hơn. CPI không phản ánh được sự gia tăng sức mua này của đồng tiền nên vì thế lại đánh giá mức giá cao hơn thực tế.

3. Không phản ánh được sự thay đổi của chất lượng hàng hoá vì nếu mức giá của một hàng hoá cụ nào đó tăng nhưng chất lượng cũng tăng tương ứng thậm chí tăng hơn thì trên thực tế mức giá không tăng. Chất lượng hàng hoá dịch vụ nhìn chung đều có xu hướng được nâng cao nên CPI cũng đã phóng đại mức giá.

Việc tính toán CPI ở Việt nam do Tổng cục Thống kê đảm nhiệm. Quyền số để tính CPI được xác định năm 2000 và bắt đầu áp dụng từ tháng 7 năm 2001. Quyền số này dựa trên kết quả của hai cuộc điều tra là Điều tra mức sống dân cư Việt nam 1997-1998 và Điều tra kinh tế hộ gia đình năm 1999. Điều đáng chú ý là quyền số của nhóm hàng Lương thực - Thực phẩm chiếm tới 47,9% trong khi Văn hoá - Thể thao - Giải trí chỉ chiếm 3,8%.

CPI

Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI, từ các chữ tiếng Anh Consumer Price Index) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng.

PHƯƠNG PHÁP DÙNG ĐỂ TÍNH CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG:

Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền theo công thức Laspeyres của giá cả của kỳ báo cáo (kỳ t) so với kỳ cơ sở. Để làm được điều đó phải tiến hành như sau:

1. Cố định giỏ hàng hoá: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.

2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá tại mỗi thời điểm.

3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng nhân với giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại.

4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng bằng công thức sau:

CPIt = 100 x (Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t)/(Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở)

Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước.

Nếu muốn tính Chỉ số lạm phát của một thời kỳ, người ta áp dụng công thức sau:

Chỉ số lạm phát thời kỳ T = (CPI thời kỳ T - CPI thời kỳ T-1) : CPI thời kỳ T-1

Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ sau.

CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm.

CPI còn được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng.

Ngoài CPI người ta cũng tính toán Chỉ số giá bán buôn­ là mức giá của giỏ hàng hóa do các doanh nghiệp mua vào, khác với CPI là giá do người tiêu dùng mua vào (giá bán lẻ).
Tổng đại lý thường là các doanh nghiệp có đủ nguồn lực cần thiết về vốn, nhân lực, kinh nghiệm, mạng lưới... để phân phối sản phẩm cho đối tác.
Hình thức tổng đại lý là hình thức khá phổ biến trong các hệ thống
thương mại Việt Nam và quốc tế.
Để được giao quyền, Tổng đại lý thường phải cam kết nhiều nghĩa vụ khác nhau, đặc biệt về
doanh thu, phát triển mạng lưới, tốc độ phát triển...

Có 2 hình thức Tổng đại lý phổ biến:
1. Tổng đại lý độc quyền: Được giao toàn quyền để phân phối một loại hàng hóa, dịch vụ trên một địa bàn nhất định.

2. Tổng đại lý không độc quyền: Được giao quyền để phân phối một loại hàng hóa, dịch vụ trên một địa bàn nhất định nhưng không độc quyền.

Điểm khác của tổng đại lý này so với các đại lý là họ được ưu đãi về nguồn hàng, hoa hồng, hỗ trợ nguồn lực... Tổng đại lý không độc quyền phải cạnh tranh với tổng đại lý khác trên cơ sở bình đẳng. Tuy nhiên, hình thức này có những bất lợi nhất định như việc có thể nảy sinh mâu thuẫn với các tổng đại lý ngang cấp.

Bên dưới Tổng đại lý có thể có một hệ thống nhiều đại lý các cấp nhằm phủ kín địa bàn cần phân phối hàng hóa, dịch vụ và tối ưu hóa lợi nhuận.

Qui trình đánh giá quảng cáo

1. Kiểm chứng với người tiêu dùng ở giai đoạn phát triển ý tưởng quảng cáo thông qua nghiên cứu định tính.

2. Kiểm chứng với người tiêu dùng sau khi phim quảng cáo hoàn tất thông qua nghiên cứu định lượng.

3. Đánh giá kết quả qua các chỉ số quan trọng:
- TOM - nhãn hiệu nhớ đầu tiên
- Brand awareness - nhận biết nhãn hiệu
- For someone like me - nhãn hiệu dành cho tôi
- Key messages - thông điệp chính
- Most often use - sử dụng thường xuyên

** Nhãn hiệu mới, sản phẩm mới thường đặt mục tiêu TÁC ĐỘNG TỨC THÌ từ quảng cáo (News ads)

*** Nhãn hiệu lâu đời thì tập trung nâng tầm YÊU THÍCH/ ĐẲNG CẤP (Thematic ad)

Tiêu chí đánh giá quảng cáo

1. Đối với cộng đồng cty quảng cáo - sáng tạo:
Đánh giá quảng cáo qua sự sáng tạo.
VD: liên hoan quảng cáo Cannes Lions - Pháp, liên hoan quảng cáo Việt Nam Young Lion...

2. Đối với Marketer:
- Tạo được doanh thu và lợi nhuận.
- Xây dựng được định vị nhãn hiệu.
- Tính cạnh tranh của sp so với đối thủ.
- Định hướng mang tính lâu dài. (VD Heineken: cốt yếu vẫn là "Chỉ có thể là Heineken", nhưng cách thể hiện qua mỗi TVC có thể khác nhau.)

IN DETAILS:
- Nội dung thông điệp chính (Key message): Thông điệp chính của quảng cáo là gì?
- Thông điệp chính có phải là duy nhất (Single minded): còn thông điệp nào khác ngoài thông điệp chính?
- Thể hiện định vị sản phẩm (Positioning)
- Thể hiện sự thật ngầm hiểu độc đáo (Insights)
- Tính liên quan đến đối tượng khách hàng mục tiêu (Relevant)
- Thể hiện sự khác biệt (Differentiation) so với quảng cáo khác trong hoặc cùng ngành.
- Mang tính sở hữu lâu dài (Ownable): Liệu khi nhớ đến cách quảng cáo người xem có liên tưởng đến 1 nhãn hiệu nhất định.
- Tính ấn tượng mạnh (Impactful)
- Tính liên tưởng (Evocative): truyền tải thông tin sản phẩm và cả lợi ích cảm xúc
- Tính lôi cuốn (Involving)
- Làm cho người xem muốn mua (call to action)

Lưu ý khi làm quảng cáo

1. Marketer phải hiểu nhất:
- Người tiêu dùng mục tiêu
- Ý tưởng sản phẩm
- Định vị sản phẩm
- Chiến lược Marketing
- Mục tiêu kinh doanh

2. Mọi quảng cáo cần phải SINGLE-MINDED - PHẢN ÁNH 1 Ý ĐỒ DUY NHẤT.

3. Mẫu quảng cáo là sáng tạo khi nó làm cho bạn SMILE:
- S - simple - đơn giản
- M - memorable - dễ nhớ
- I - interesting - gây chú ý
- L - linked strongly to the brand - gắn kết tốt với nhãn
- E - entertaining - thú vị

4. Quảng cáo cuối cùng đi đến mục tiêu: LÀM NGƯỜI TA MUỐN MUA

Các hình thức quảng cáo

Quảng cáo truyền thống:
Mang tính 1 chiều thông qua các phương tiện truyền thông thông dụng BỦA VÂY THÔNG TIN TỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG MỤC TIÊU.

Quảng cáo tương tác:
Mang tính tương tác hiện đại bao gồm tất cả các phương tiện truyền thông truyền thống và các loại hình công nghệ cao, trao QUYỀN lựa chọn và sáng tạo thông tin cho người xem quảng cáo.

Các hình thức quảng cáo truyền thống:
1. QC Truyền hình TVC - Television Commercial
2. QC Báo chí - Prints
3. QC Radio - Radio
4. QC ngoài trời - Outdoor
5. QC truyền miệng - Word of mouth
6. QC dùng thử - Sampling
7. QC sự kiện - Events
8. QC bao bì - Packaging
9. QC trưng bày - Display

Các hình thức quảng cáo tương tác:
1. TVC + SMS + Người tiêu dùng cung cấp ý tưởng
2. Prints + SMS + Người tiêu dùng sáng tạo quảng cáo
3. Web radio
4. Outdoor + Bluetooth (gửi thông điệp tới điện thoại di động)
5. Viral emailing (quảng cáo chuyển tiếp)
6. Sampling + Internet
7. Events + Online/offline chat
8. Packaging + Internet + người tiêu dùng tự thiết kế
9. Display + Bluetooth
10. Internet + người tiêu dùng thiết kế, chuyển tiếp
11. SMS + Người tiêu dùng nhắn tin

Ex: No.1 Album in 29 countries of Madonna.
Ringtone - Music only ( download free) => Film, tell a secret (tiết lộ 1 vài bí mật làm phim) => Book release => Preview of album (3 tracks) file nghe thử trên Itunes, ko được download => On the ground - club and street appearances => First listen - "Hung up" => First view of Clip => First listen whole album => Pre-order => On sales.

Quảng cáo là gì?

... công cụ được dùng để làm cho người tiêu dùng tiềm năng nhận biết lợi ích của 1 sản phẩm, hướng tới mục đích khuyến khích họ mua và sử dụng nhiều hơn sản phẩm, dịch vụ được quảng cáo.

Chức năng quan trọng khác của quảng cáo là tạo được 1 hình tượng trong nhận thức của người tiêu dùng khi họ liên tưởng đến sản phẩm, hay gọi là hình ảnh nhãn hiệu.

Hình ảnh nhãn hiệu vượt ra khỏi những tính năng của sản phẩm. Tất cả những hình ảnh đó đã được thêm vào sản phẩm nhờ quảng cáo. Người tiêu dùng thường xuyên mua sản phẩm không chỉ vì những tính năng của nó mà còn do họ muốn được nhìn nhận như là hình tượng có liên quan đến nhãn hiệu...

Thứ Hai, 15 tháng 6, 2009

Những thay đổi về giá

Chủ động giảm giá
Nhiều hòan cảnh có thể làm cho một Công ty phải xét đến chuyện giảm giá sản phẩm của mình xuống mặc dù điều này có thể gây nên những trận chiến về giá cả. Một nguyên nhân là sự quá thừa năng lực, Công ty thì cần thêm khách hàng nhưng không thể đạt dược bằng các biện pháp khác. Từ cuối những năm 70 nhiều Công ty đã từ bổ lối định giá theo hãng dẫn đầu và chuyển sang lối định giá linh hoạt.

Có nguyên nhân khác nữa là sự giảm thị phần đáng kể do cạnh tranh mãnh liệt về giá. Một số ngành công nghiệp Mỹ – xe hơi, điện tử, gia dụng, máy ảnh, đồng hồ và thép đang mất dần thị phần vào tay các đối thủ cạnh tranh Nhật Bản vì sản phẩm của Nhật có chất lượng cao lại đang bán với giá rẻ hơn sản phẩm của Mỹ. Hãng General Motors đã phải giảm giá xe hơi kiểu mini của mình xuống 10% ở vùng bờ tây nơi mà sự cạnh tranh của người Nhật mạnh nhất.

Các Công ty cũng sẽ chủ động giảm giá trong một chiến dịch nhằm chi phối thị trường thông qua phí tổn thất. Hoặc Công ty khởi đầu với phí tổn thấp hơn đối thủ, hoặc chủ động giảm giá với hy vọng đạt được thị phần là điều sẽ dẫn tới phí tổn thấp khi khối lượng lớn/

Chủ động tăng giá
Trong những năm gần đây, nhiều Công ty đã phải tăng giá lên. Một sự tăng giá thành công có thể làm tăng lợi nhuận. Nguyên nhân chính của sự tăng giá là do sự lạm phát chi phí dai dẳng có tính tòan cầu. Mức tăng năng suất không sánh kịp với vật giá gia tăng đã gậm dần biến tế lợi nhuận, khiến các Công ty cứ phải tăng giá lên mãi.
Nhiều Công ty thường nâng giá cao hơn mức vật giá gia tăng trong sự tiên đoán rằng sự lạm phát còn cao hơn nữa.

Một yếu tố khác dẫn đến chuyện tăng giá là mức cầu quá độ.
Để tăng giá thành công, doanh nghiệp nên tránh tạo ấn tượng mình là kẻ đục nước béo cò. Phải hỗ trợ việc tăng giá bằng một chương trình truyền thống, nhằm nói cho khách hàng biết lý do tăng giá. Các lực lượng bán hàng của Công ty nên giúp đỡ khách hàng tìm các phương cách tiết kiệm.

Phản ứng của người mua đối với việc thay đổi giá cả
Khách hàng không luôn luôn hiểu đúng về sự thay đổi giá cả. Một sự giảm giá có thể làm cho khách hàng nghi ngờ: sắp có một model mới thay thế, món hàng có khuyết điểm gì đó và bán không chạy, chất lượng hàng bị giảm.v.v…

Một sự tăng giá thường làm giảm khối lượng bán ra, có thể có một số ý nghĩa tích cực đối với người mua: Món hàng bán rất chạy, nếu không mua ngay có thể không mua được, món hàng có giá trị tốt khác thường.v.v...

Phản ứng của đối thủ cạnh tranh đối với sự thay đổi giá cả.
Các nhà cạnh tranh rất dễ phản ứng với sự thay đổi giá. Làm thế nào Công ty có thể lường trước được các phản ứng có thể có của các nhà cạnh tranh? Có thể phản ứng của đối thủ cạnh tranh nằm trong chiều hướng chung của việc thay đổi giá - Như vậy phản ứng của đối thủ có thẻ lượng trước được. Có thể đối thủ coi sự thay đổi giá như sự thách đố mới và phản ứng theo quyền lợi riêng của họ. Trong trường hợp này Công ty phải xác định xem quyền lợi riêng của họ là gì? Khi có nhiều nhà cạnh tranh Công ty phải dự đoán được phản ứng của mỗi đối thủ.

Đáp ứng với những thay đổi giá cả.
Công ty nên đáp ứng thế nào đối với một sự thay đổi giá do đối thủ cạnh tranh khởi xướng.
Công ty cần xem xét những vấn đề như tại sao đối thủ thay đổi giá?
Đối thủ lập kế hoạch thay đổi giá tạm thời hay lâu dài?
Điều gì sẽ xảy ra cho thị phần và lợi nhuận của Công ty nếu Công ty không phản ứng lại? hay đáp ứng có thể có của đối thủ sẽ như thế nào?

Trên cơ sở phân tích mục tiêu, chiến lược của đối thủ những mặt mạnh mặt yếu của họ, độ nhạy của giá cả và giá trị của thị trường Công ty cần có những phản ứng linh hoạt và sáng tạo tùy theo những điều kiện và hòan cảnh cụ thể.

Các chiến lược điều khiển giá cả

Định giá phân biệt.
Các Công ty thường thay đổi mức giá tùy theo đối tượng mua (trẻ em, thương binh, sinh viên… thường được giảm giá vé xe lửa, máy bay) hoặc tùy loại bao bì, cách phục vụ, chỗ ngồi (trong rạp hát, rạp chiếu bóng), theo ngày hay giờ phục vụ.

Định giá tâm lý.
Ở đây người bán không chỉ lưu tâm đến vấn đề kinh tế mà còn để ý đến khía cạnh tâm lý học của giá cả nữa. Hãy xem một đầu máy video giá 300 đô la với một đầu máy cùng loại để giá 299,95 đô la. Chênh lệch thực tế có 5 xu nhưng sự cách biệt về tâm lý rất lớn. Khách hàng cho máy bán với giá 299,95 đô la là rẻ, nó nằm trong phạm vi trên 200 đô la chứ không phải phạm vi 300 đôla. Người mua có cảm giác được mua với giá rẻ hơn sẽ vui hơi, hài lòng hơn.

Định giá để quảng cáo.
Do những hòan cảnh nào đó, các Công ty sẽ tạm thời định giá sản phẩm thấp hơn giá niêm yết và thậm chí có lúc thấp hơn cả giá thành. Việc định giá quảng cáo mang nhiều hình thức:
- Định giá quảng cáo bán giá vốn vào dịp đặc biệt nào đó.
- Hồi khấu tiền mặt gửi trực tiếp đến khách hàng khi mua sản phẩm của Công ty. Đây là một công cụ linh hoạt để giải quyết sản phẩm tồn đọng.
- Chiết khấu tâm lý: người bán đề ra một mức giá cao giả tạo cho một sản phẩm và rồi bán ra với giá thật thấp. Chẳng hạn trước đây giá bán 599 đô la nay còn 299 đô la.

Định giá theo địa dư
Với những khách hàng ở các miền khác nhau trong nước, Công ty phải định giá như thế nào? Công ty nên định giá cao đối với khách hàng ở xa để trang trải chi phí vận chuyển cao hay nên tính cùng một giá cho khách hàng bất kể ở đâu. Định giá theo địa dư gồm có:
* Định giá FOB.
Định giá FOB là định giá hàng hoá với điều kiện hàng hoá được giao lên sàn của phương tiện vận chuyển. Sau đó khách hàng chịu chi phí vận chuyển tiếp đến điểm đến. Có người cho rằng đây là cách công bằng nhất để phân chia chi phí vận chuyển. Tuy nhiên Công ty sẽ khó thu hút được các khách hàng ở xa, khi ở đó các đối thủ cạnh tranh có thể cung cấp cho các sản phẩm tương tự có giá bán bằng hoặc cao hơn Công ty một chút nhưng khách hàng không chịu chi phí vận chuyển lớn.
* Định giá đồng vận phí.
Ở đây Công ty đề ra mức giá bán như nhau đối với mọi khách hàng bất kể họ ở đâu. Lối định giá này tương đối dễ quản lý và cho phép Công ty duy trì được mức giá đã được quảng cáo khắp nước.
* Định giá theo vùng
Đây là sự triết trung giữa định giá FOB và định giá đồng vận phí. Mọi khách hàng trong vùng đều mua với một mức giá như nhau tuy nhiên ở những vùng giáp ranh sẽ có chênh lệch về giá mặc dù khách hàng ở rất gần nhau.
* Định giá miễn thu vận phí.
Nhà kinh doanh nào quan tâm đến các khách hàng nhiều hơn nhằm cạnh tranh, họ có thể chịu tòan bộ phí tổn vận chuyển để thu hút khách. Người ta lập luận rằng: Nếu bán được nhiều hơn, phí tổn bình quân sẽ hạ xuống và bù lại được phần vận phí phải gánh thêm ấy.Lối định giá này dùng để xâm nhập thị trường và cũng để đứng trụ được trong những thị trường ngày càng cạnh tranh nhiều hơn.

Các chiến lược điều khiển giá cả

1. ĐỊNH GIÁ CHIẾT KHẤU:

Chiết khấu tiền mặt. Chiết khấu tiền mặt là sự giảm giá cho những người mua nào thanh toán sớm. Một ví dụ tiêu biểu: Nếu người bán ghi là “2/10 net 30” có nghĩa việc thanh toán được kéo dài trong vòng 30 ngày, nhưng người mua có thể được lợi 2% trên giá nếu thanh toán hóa đơn trong vòng 10 ngày. Những chiết khấu này khá phổ biến và phục vụ cho mục đích cải thiện thanh toán khỏan của người bán và làm bớt phí tổn thu nợ cũng như lượng nợ khó đòi.

Chiết khấu số lượng là sự giảm giá cho những người mua nhiều. Chiết khấu này phải được áp dụng cho mọi khách hàng nhằm khích lệ họ mua nhiều nhờ đó giảm được nhiều phí tổn và tăng được tổng lợi nhuận của Công ty.

Chiết khấu chức năng còn được gọi là Chiết khấu thương mại được nhà sản xuất giành cho các thành viên trong kênh phân phối nhằm kích thích họ hòan thành tốt các công việc của họ.

Chiết khấu theo mùa là sự giảm giá cho các khách hàng mua hàng hay dịch vụ vào màu vắng khách. Ví dụ các khách sạn vùng biển giảm giá phòng vào mùa đông lạnh.

Định giá (tiếp theo)

Định giá sản phẩm kèm theo.
Có những sản phẩm được dùng kèm theo với sản phẩm chính.

Ví dụ: lưới dao cạo dùng với dao cạo râu, phim dùng cho máy chụp ảnh. Các nhà sản xuất những sản phẩm chính (dao cạo râu, máy chụp ảnh) thường định giá chúng thấp và dồn mức lời cao cho những sản phẩm đi kèm. Kodak định giá máy ảnh của mình thấp vì Công ty kiếm được nhiều lời từ việc bán phim. Các nhà sản xuất máy ảnh mà không bán phim thì phải định giá máy cao hơn để đạt lợi nhuận mục tiêu.

Định giá sản phẩm phụ.
Trong ngành chế biến thịt, lọc dầu, hóa chất, luyện kim, thường có các sản phẩm phụ và sau khi xử lý, chúng có những giá trị nhất định. Các sản phẩm phụ trong ngành chế biến thịt là da, xương, huyết, lòng, tim, gan,… trong ngành lọc dầu là nhựa đường, dầu nhớt…; trong ngành luyện kim là xi măng xỉ, bê tông xỉ, khí lò cốc, lò cao..v..v. Khi tìm kiếm được thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm phụ này, chúng cho phép giảm được nhiều chi phí, do đó giảm được giá bán sản phẩm chính khiến nó có sức cạnh tranh cao hơn.

Định giá sản phẩm tùy chọn

Nhiều Công ty có đưa ra bán những sản phẩm tùy khách chọn thêm cùng với sản phẩm chính.

Người mua xe hơi có thể đặt mua thêm bộ phận điện tử điều khiển cửa xe, bộ phận làm tan dương mù, bộ phận làm dịu ánh sáng.v.v..

Việc định giá những bộ phẩm tùy chọn là một vấn đề không đơn giản. Các hãng xe hơi phải quyết định xem những thứ nào hình thành giá cả và những thứ nào sẽ để khách tùy chọn.

Chiến lược định giá của hãng General Motors là quảng cáo một kiểu xe đơn thuần với giá 8.000 đô la để thu hút khách hàng đến phòng trưng bày và dành hầu hết chỗ của phòng triển lãm để bày những chiếc xe có đủ thứ kèm theo với giá 10.000 hay 12.000 đôla.

Model tiết kiệm thì bị cắt xén rất nhiều tiện nghi đến nỗi phần lớn người mua không chuộng nó.

Khi hãng GM tung ra loại xe mới có truyền động bánh trước hiệu J vào mùa xuân 1981, hãng đã đưa vào trong giá một số tiện ích mà trước đây chỉ là những thứ tùy chọn. Giờ đây, giá quảng cáo thường tượng trưng cho một chiếc xe được trang bị hòan hảo. Tuy nhiên vì giá cao, nhiều khách hàng đã do dự khi mua sắm xe.

Định giá mặt hàng

Các công ty thường triển khai các mặt hàng của một dãy hay tuyến sản phẩm (product line).

Thí dụ hãng Panasonic đưa ra 5 loại máy quay video màu, từ cái đơn giản nặng 2 kg đến loại phức tạp nặng 2,8 kg gồm hệ thống điều chỉnh ánh sáng, tiêu cự tự động và ống kính hai tốc độ. Mỗi loại máy nối tiếp trong chuỗi mặt hàng ấy đều có cống hiến những đặc điểm khác nữa. Các nhà marketing phải quyết định các bậc giá cho những loại sản phẩm khác nhau ấy.

Các bậc giá ấy cần tính đến những cách biệt về phí tổn giữa các máy ấy, những đánh giá của khách hàng về các đặc điểm khác nhau và giá cả của các đối thủ cạnh tranh.

Nếu sự sai lệch về giá giữa hai máy kế tiếp nhau mà nhỏ thì người mua sẽ mua máy tân tiến hơn và điều này sẽ làm tăng lợi nhuận của Công ty nếu sai biệt về phí tổn nhỏ hơn sai biệt về giá cả.

Nếu sự cách biệt về giá mà cao thì khách hàng sẽ mua những máy ít tân tiến hơn.

Nhiệm vụ của nhà marketing là phải thiết lập được những sự khác biệt về chất lượng được cảm nhận để góp phần hỗ trợ cho những khác biệt về giá cả.

9 chiến lược giá


Nếu Công ty đứng đầu thị trường hiện thời đã chiếm lĩnh ô 1 qua việc đưa ra sản phẩm hảo hạng và đề ra mức giá cao nhất, thì Công ty mới gia nhập, có thể thích triển khai một trong số những chiến lược khác. Công ty mới ấy có thể thiết kế một sản phẩm có chất lượng cao và đề ra giá trung bình (ô2) thiết kế một sản phẩm chất lượng trung bình và đề ra một trung bình (ô5) .v..v. Công ty cũng phải xem xét qui mô và tốc độ tăng trưởng thị trường trong mỗi ô và các đối thủ cạnh tranh đặc biệt.

Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2009

Các chiến lược định giá sản phẩm mới

Định giá chắt với thị trường.
Nhiều công ty có phát minh được sản phẩm mới đã định giá cao ban đầu để thu được tỷ suất lợi nhuận lớn trên mỗi đơn vị sản phẩm. Vì giá cao nên số người mua không nhiều, công ty dần dần giảm giá xuống đẻ có thêm khách hàng mới. Việc định giá chắt vớt thị trường chỉ có ý nghĩa trong những điều kiện như số lượng người mua đủ để có mức cầu hiện hành cao, phí tổn trên mỗi đơn vị sản phẩm khi sản xuất với khối lượng nhỏ, không quá cao đến độ làm triệt tiêu lợi thế của việc đề ra mức giá mà khách sẽ chấp nhận. Gia ban đầu cao sẽ không thu hút thêm các đối thủ cạnh tranh hay giá cao hỗ trợ được hình ảnh về một sản phẩm hoàn hảo.

Định giá nhằm thâm nhập thị trường
Một số công ty khác định giá sản phẩm tương đối thấp, hi vọng rằng sẽ thu hút được một lượng khách mua lớn và đạt được một thị phần lớn. Dần dần do cải tiến, tích lũy kinh nghiệm, chi phí sản xuất sẽ hạ thấp hơn nữa và lợi nhuận sẽ tăng lên.

*** Những điều kiện sau đây thuận lợi cho lối định giá thấp
- Thị trường rất nhạy cảm với giá cả và giá thấp sẽ kích thích sức tăng trưởng của thị trường nhiều hơn nữa
- Chi phí sản xuất và phân phối ngày càng giảm do cải tiến và tích lũy được nhiều kinh nghiệm.
- Do giá thấp, giảm bớt được cạnh tranh thực tế và tiềm tàng vì đối thủ không thấy hấp dẫn khi lợi nhuận ít.
Giá mà công ty đề ra sẽ nằm ở khoảng nào đó giữa một bên là giá quá thấp không có một mức lời nào và một bên là giá quá cao để không thể có một mức cầu nào.

Phí tổn của sản phẩm sẽ tạo thành cái nền cho giá cả. Những cảm nhận của người tiêu dùng về giá trị sản phẩm lập thành độ cao.

Công ty phải xem xét giá của đối thủ cạnh tranh, cùng những yếu tố bên trong và bên ngoài khác để tìm ra mức giá tối ưu của 2 cực ấy. Các công ty giải quyết việc định giá bằng cách chọn một lối tiếp cận tổng quát dựa trên cơ sở của 3 loại cân nhắc trên.

1. Định giá dựa trên Phí tổn:
Định giá cộng thêm chi phí:
Phương pháp định giá sơ đẳng nhất là cộng thêm vào phí tổn một mức lợi nhuận mục tiêu: ta có thể dùng công thức:
G = Z + m
Trong đó: G là giá bán đơn vị sản phẩm.
Z là phí tổn cho một đơn vị sản phẩm
m là lợi nhuận mục tiêu,%, m có thể tính theo % của phí tổn hoặc %của giá bán.
Tuy nhiên phương pháp này không tính đến nhu cầu và cạnh tranh trên thị trường nên cũng còn những nhược điểm nhất định. Một cách tiếp cận khác của phương pháp định giá theo phí tổn và lợi nhuận mục tiêu là sử dụng phương pháp xác định điểm hòa vốn.
2. Định giá dựa trên người mua:
Ngày càng có nhiều công ty định giá dựa trên giá trị được cảm nhận của sản phẩm. Họ xem sự cảm nhận về giá trị của người mua, chứ không phải phí tổn của người bán, là chìa khóa để định giá. Họ sử dụng những biến số phi giá trong phối thức marketing để xây dựng giá trị được cảm nhận trong tâm trí người mua. Giá được đề ra là để đạt được cái giá trị cảm nhận ấy. Công ty sử dụng lối định giá theo giá trị cảm nhận phải thiết lập được giá trị trong ý nghĩa của người mua trong sự tương quan với các sản phẩm cạnh tranh khác.
3. Định giá dựa vào cạnh tranh:
Định giá theo thời giá:
Khi định giá theo thời giá công ty căn cứ chủ yếu vào giá của đối thủ cạnh tranh, ít chú trọng đến phí tổn hay sức cầu . Công ty có thể định giá bằng, cao hơn hay thấp hơn đối thủ cạnh tranh chính. Các công ty nhỏ thì làm theo hãng đứng đầu. việc định giá theo thời giá rất phổ biến. Định giá theo thời giá sẽ bảo toàn được sự hòa hợp của cả ngành.
Định giá đấu thầu.
Định giá dựa trên sự cạnh tranh cũng chi phối các xí nghiệp đấu thấu để nhận việc. Công ty định giá dựa trên những đối thủ cạnh tranh. Xí nghiệp muốn giành được hợp đồng thì phải định giá thấp hơn các xí nghiệp khác. Công ty không thể định giá thấp hơn phí tổn mà không phương hại đến vị trí của mình. Nhưng càng định giá cao hơn phí tổn, cơ may đạt được hợp đồng của xí nghiệp càng ít đi. Hệ quả thuần của hai sức kéo trái ngược nhau này có thể được miêu tả bằng thuật ngữ lợi nhuận dự kiến của một cuộc đấu thầu đặc thù nào đó. Sử dụng lợi nhuận dự kiến như một tiêu chuẩn để đề giá là điều có ý nghĩa đối với công ty lớn đang thực hiện nhiều cuộc đấu thầu.

Định giá bán tại cty

Marketer chỉ định giá sản phẩm cho giá bán cuối cùng đến người tiêu dùng. Từ mức giá đó tính ngược lên.

Việc định giá dựa trên:
- Đối thủ thực sự nhắm vào?
- Nhu cầu thực sự (niche) của người tiêu dùng trên thị trường
- Khả năng sản xuất, nghiên cứu, chi phí nguyên liệu

Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến việc định giá

1 Thị trường và nhu cầu:
Phí tổn tạo nền cho việc lập giá còn thị trường và nhu cầu thì tốc độ cao. Cả khách hàng tiêu dùng lẫn khách hàng kinh doanh đều cân bằng gía cả của sản phẩm và dịch vụ dựa trên những lợi ích có được từ sản phẩm hay dịch vụ đó. Như thế, trước khi định giá, nhà marketing phải hiểu được mối quan hệ giữa giá cả và mức cầu đối với sản phẩm của mình.

Định giá trong các thị trường khác nhau: Bề rộng của định giá của người bán thay đổi khác nhau theo các thị trường khác nhau. Ở thị trường cạnh tranh thuần túy cả người bán lẫn người mua đều chấp nhận thời giá thị trường. Việc định giá đặc biệt mang tính chất thách đố trong những thị trường mang tính độc quyền.

Những cảm nhận của người tiêu thụ. Người tiêu thụ sẽ là người quyết định xem xét giá của sản phẩm có phù hợp không? Khi định giá công ty phải xét đến những cảm nhận của ngườu tiêu thụ về giá và những cảm nhận ấy ảnh hưởng ra sao đến các quyết định mua hàng của họ.

Khi người tiêu thụ mua một sản phẩm, họ đổi một số giá trị (giá cả) để lấy một giá trị khác. Vì vậy việc lập giá định hướng theo người mua bao hàm chuyện hiểu được giá trị người tiêu dùng muốn có qua những lợi ích họ nhận được từ sản phẩm và chuyện đề ra một mức giá cả phù hợp với giá trị đó. Các lợi ích bao gồm cả hữu hình và vô hình. Khi một người tiêu dùng mua một bữa ăn ở một nhà hàng sang trọng thì việc tính giá trị các món ăn trong bữa ăn thật dễ dàng. Thế nhưng để tính được giá trị của những điều hài long khác như khẩu vị, khung cảnh thanh lịch, sự thỏa mái, sự chuyện trò, địa vị,... thì quả là rất khó khăn ngay cả đối với chính người tiêu dùng.
những giá trị này sẽ thay đổi theo những người tiêu dùng khác nhau và theo những hoàn cảnh khác nhau. Như thế, công ty thường thấy rằng khó đo lường được giá trị mà khách hàng sẽ gán cho sản phẩm của mình, mặc dù vậy người tiêu dùng vô tình hay hữu ý, đều đang sử dụng những giá trị này để đánh giá mức giá của một sản phẩm.
nếu người tiêu thụ cảm thấy giá cả cao hơn giá trị của sản phẩm họ sẽ không mua sản phẩm đó.

Các nhà marketing phải cố gắng phân tích những động cơ của người tiêu thụ trong việc mua sản phẩm và đè ra giá cả phù hợp với những cảm nhận của họ về giá trị sản phẩm.

vì người tiêu thụ thay đổi các giá trị mà họ dành cho những đặc điểm sản phẩm khác nhau, nên các nhà làm marketing thường thay đổi các chiến lược lập giá đối với những khúc tuyến giá cả khác nhau. Họ cống hiến những kết hợp đặc điểm, tính chất sản phẩm khác nhau cho những mức giá khác nhau.

Việc định giá định hướng theo người mua nghĩa là nhà làm marketing không chỉ thiết kế, sản xuất ra sản phẩm đưa ra chương trình marketing rồi cứ thế mà định giá. Muốn định giá có hiệu quả cần bắt đầu bằng sự phân tích nhu cầu của người tiêu dùng và những cảm nhận về giá của họ. Giá cả phải được xem xét cúng với nhứng yếu tố biến đổi khác thuộc phối thức marketing, trước khi để ra chương trình marketing.

2. Phân tích mối quan hệ giá cả- nhu cầu: Mỗi mức giá mà công ty có thể đưa ra đều dẫn đến một mức cầu khác nhau. Thông thường nhu cầu và giá cả có tỷ lệ nghịch tức là giá càng cao, sức cầu càng thấp và ngược lại. Cần xác định độ co giãn của cầu theo giá cả.

Giả sử nhu cầu giảm đi 10% khi người bán tăng giá 2%. Độ co giãn của cầu sẽ là 5. Nếu sức cầu giảm đi 2% với mức tăng giá 2%, độ co giãn là 1. Trong trường hợp này, doanh số của người bán vẫn y nguyên, không đổi. nếu nhu cầu giảm đi 1% khi giá cả tăng lên 2% độ co giãn là –1/2. Sức cầu co giãn ít , người bán dễ tăng giá. Nêu nhu cầu co giãn nhiều, người bán sẽ nghĩ đến chuyện hạ giá. Một mức giá thấp hơn sẽ dẫn đến tổng doanh thu cao hơn.

3. Cạnh tranh.
Giá cả của đối thủ cạnh tranh và phản ứng của họ về giá ảnh hưởng không nhỏ đến việc định giá của công ty. Người tiêu dùng đánh giá về giá trị và giá cả của một sản phẩm dựa trên những giá cả và giá trị của sản phẩm tương đương.

chiến lược định giá của công ty cũng có thể ảnh hưởng đến sự cạnh tranh.

Một chiến lược giá cao, mức lời cao, có thể thu hút sự cạnh tranh, trong khi một chiến lược giá thấp, mức lời thấp có thể làm nản các đối thủ cạnh tranh hay làm họ rút lui khỏi thị trường.

Công ty cần biết giá cả và chất lượng của đối thủ. Điều này có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Công ty có thể cử người đi khảo giá và so sánh các sản phẩm của phía cạnh tranh. Công ty có thể kiếm bảng giá của đối thủ, tìm mua thiết bị của họ và phân tích. Công ty có thể hỏi người mua xem họ cảm nhận thế nào về giá cả và chất lượng sản phẩm của đói thủ cạnh tranh.

Một khi công ty đã biết rõ giả cả và các cống hiến của những đối thủ cạnh tranh, công ty có thể sử dụng nó như một điểm định hướng cho việc định giá của mình. nếu sản phẩm của mình tương tự sản phẩm của một đối thủ quan trọng, công ty phải đề sát giá với các đối thủ ấy, không thì sẽ bị mất doanh số. Nếu sản phẩm của mình tuyệt hơn, công ty có thể đề giá cao hơn đối thủ. Tuy nhiên, công ty phải ý thức được rằng các đối thủ cạnh tranh cũng có thể thay đổi giá của họ để đói lại với giá của công ty. về cơ bản, công ty sẽ sử dụng để định vị sản phẩm của mình tương quan với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.

*Các yếu tố bên ngoài khác
Khi định giá, công ty cũng phải xét đến những yếu tố khác thuộc môi trường bên ngoài của mình chẳng hạn, tình hình kinh tế có thể có một tác động mạnh đến hiệu năng của các chiến lược định giá khác nhau.

Các yếu tố kinh tế như lạm phát, tăng trưởng hay suy thoái và lãi suất, đều ảnh hưởng đến các quyết định lập giá, bởi vì chúng ảnh hưởng đến phí tổn sản xuất của một sản phẩm lẫn những cảm nhận của người tiêu thụ về giá cả và giá trị của sản phẩm đó.

Công ty cũng phải xem xét giá cả của mình có ảnh hưởng thế nào đến những thành viên khác thuộc môi trường của mình. Những người bán lại sẽ phản ứng ra sao trước các mức giá? công ty nên định giá sao cho những người bán lại đó có được một lợi nhuận thỏa đáng, khích lệ họ ủng hộ, và giúp họ bán được sản phẩm một cách hiệu quả.

Chính quyền là một ảnh hưởng quan trọng khác lên quyết định giá. Các nhà marketing cần phải biết các luật lệ đang ảnh hưởng đến giá cả và đảm bảo rằng các chính sách định giá của công ty là đúng đắn.

Các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến quyết định Gía

1. Mục tiêu marketing:
Trước khi định giá, công ty phải quyết định xem với sản phẩm đó thì cần phải đạt được điều gì.
Nếu công ty chọn thị trường mục tiêu và định vị thị trường cẩn thận, thì chiến lược phối hợp marketing bao gồm cả giá cả, sẽ thực hiện khá dễ dàng.
Đồng thời , công ty còn có các mục tiêu khác nữa.
Khi mục tiêu được xác định rõ ràng, việc định giá càng dễ dàng hơn.
Các mục tiêu phổ biến là sự tồn tại, tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa thị phần và dẫn đầu về chất lượng sản phẩm.

Sự tồn tại: khi cạnh tranh khốc liệt, công ty gặp nhiều khó khăn họ sẽ coi trọng sự tồn tại như mục tiêu chính yếu. Họ phải định giá thấp, miễn là giá cả đủ trang trải các biến phí và một số định phí khác để có thể tồn tại, cầm cự được một thời gian nhằm vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Tối đa hóa lợi nhuận: Nhiều công ty muốn đề ra một mức giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận hiện taik. họ ước lượng mức cầu và phí tổn đi liền với những mức giá khác nhau và chọn ra mức giá có được lợi nhuận tối đa hoặc tỉ lệ doanh thu trên vốn đầu tư tối đa.

Dẫn đầu thị phần:có công ty muốn đạt thị phần cao nhất. họ tin rằng công ty nào có thị phần lớn nhất sẽ có phí tổn thấp nhất và lợi nhuận về lâu dài là cao nhất. họ đeo đuổi thị phần bằng ccáh định giá thấp và một chương trình phối hợp hoạt động marketing đồng bộ để đạt được mục tiêu này.

Dẫn đầu về chất lượng sản phẩm: Một công ty có thể lấy mục tiêu dẫn đầu về chất lượng sản phẩm trên thị trường. thường thì điều này đòi hỏi phải đè ra mức giá cao và phí tổn R & D cao.

Các mục tiêu khác: Công ty có thể sử dụng giá để đạt các mục tiêu khác.
- Họ có thể định giá thấp để ngăn chặn không cho các đối thủ tham gia vaò thị trường hoặc
- định giá ngang đối thủ để ổn định thị trường.
- Giá có thể đưa ra để duy trì sự trung thành và ủng hộ của giới bán lại hoặc để tránh sự can thiệp của chính phủ.
- Giá có thể tạm thời giảm để tạo sự đáp ứng nồng nhiệt của khách hàng đói với một sản phẩm hoặc để lôi kéo thêm nhiều khách hàng đến các cửa hiệu bán lẻ.
- Một sản phẩm có thể định giá để giúp cho việc tạo doanh số của những sản phẩm khác thuộc mặt hàng của các công ty.

Như thế, việc định giá có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu của công ty ở nhiều mức độ khác nhau.

2. Chiến lược phối thức marketing:
Giá cả là một trong các công cụ thuộc phối thức marketing mà công ty sử dụng để đạt được mục tiêu marketing của mình. Các quyết định về giá phải được phối hợp với những quyết định về mẫu mã, phân phối, cổ động cho sản phẩm để hình thành một chương trình marketing nhất quán và có hiệu quả. Các quyết đưa ra cho những khâu khác thuộc phối thức marketing đều có ảnh hưởng đến những quyết định về giá. Chẳng han, các nhà sản xuất đang sử dụng nhiều nhà bán lại và mong rằng những người này sẽ ủng hộ và cổ động cho sản phẩm của mình thì có thể đưa vào giá mức lời hơn cho các nhà buôn. quyết định trên khai một vị trí có chất lượng cao sẽ có nghĩa rằng người bán phải để giá cao hơn để trang trải các chi phí cao.

Công ty thường phải định gia sản phẩm trước, từ đó mới đưa ra những quyết định khác thuộc phối thức marketing trên cơ sở mức giá mình muốn cho snả phẩm. Như vậy giá là yếu tố định vị chính cho sản phâmt, xác định thị trường của sản phẩm, đối thủ cạnh tranh và mãu mã. Giá đó quyết định đặc điểm và phí tổn sản phẩm.

Tóm lại, nhà marketing phải xem xét tổng phối thức marketing khi định giá. nếu sản phẩm được định vị dựa trên những yếu tố phi giá thì các quyết định về chất lượng quảng cáo và phân phối sẽ ảnh hưởng mạnh lên giá cả. nếu giá cả là yếu tố định vị chính thì nó sẽ ảnh hưởng mạnh đến các quyết định khác thuộc phối thức marketing . Nói chung công ty phải xem xét tất cả các quyết định thuộc phối thức marketing chung với nhau, khi triển các chương trình marketing.

3. Phí tổn
Phí tổn tạo nền cho việc định giá sản phẩm. Công ty muốn đề ra một mức giá có thể trang trải cho mọi phí tổn về sản xuất, phân phối bán sản phẩm gồm cả một tỉ lệ lời hợp lý cho những nỗ lực và rủi ro của mình.Công ty phải xem xét các loại phí tổn. nếu chi phí của công ty cao hơn chi phí của các nhà cạnh tranh khi sản xuất và bán một sản phẩm tương đương, công ty phải đề ra một mức giá cao hơn các đối thủ cạnh tranh hoặc kiếm lời ít hơn và phải ở vào một thế bất lợi về cạnh tranh.

Phí tổn công ty gồm 2 loại:
Định phí là những chi phí không thay đổi theo khối lượng sản xuất hay doanh thu. Các chi phí như tiền thuê mặt bằng, chi phí quản lý, khấu hao tài sản cố định là những chi phí cố định. Khi khối lượng sản xuất hay khối lượng bán tăng lên định phí tính cho một đơn vị sản phẩm giảm xuống.

Biến phí là những chi phí thay đổi trực tiếp theo khối lượng sản xuất. khi khối lượng sản xuất tăng tổng biến phí sẽ tăng theo. biến phí tính cho một đơn vị sản phẩm thì không thay đổi.

Tổng phí tổn: Bao gồm cả định phí lẫn biến phí. cấp điều hành muốn đề ra một mức giá ít nhất sẽ trang trải được cho tổng chi phí ở một mức độ sản xuất nhất định nào đó.. khi kinh nghiẹm được tích lũy công việc được tổ chức tốt hơn, thiết bị được cải tiến và tìm được những quy trình sản xuất tốt hơn. Với khối lượng càng lớn, công ty càng trở nên hiệu quả hơn thực hiện được lợi thế quy mô. kết quả là chi phí bình quân giảm xuống.

4. Tổ chức định giá
Cấp lãnh đạo công ty phải xem ai là người chịu trách nhiệm định giá. Ở các công ty nhỏ giá cả thường do giới quản trị cao cấp định ra hơn là do phòng marketing hay phòng kinh doanh. Ở các công ty lớn việc định giá thường do các quản trị viên sản phẩm hay nhóm sản phẩm xử lý. Ở các thị trường công nghiệp, nhân viên bán hàng được phép thương lượng với khách hàng trong phạm vi giá cả nào đó trên cơ sở chính sách và mục tiêu về giá do ban quản trị cao cấp đề ra.

Trong một số ngành mà việc định giá là yếu tố then chốt (hàng không, đường sắt, dầu khí...) các công ty thường lập thành ban định giá. Ban này thường đặt dưới sự chỉ đạo của cấp quản trị cao nhất.

Hội chợ Hàng VN Chất ...cao

Hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao được tổ chức trong nước vừa qua tại Nha Trang, Vina Acecook không hề tham dự Hội chợ, vậy mà trong bảng báo cáo tổng kết hội chợ lại có tên Acecook. Ngoài ra, các số liệu chỉ ra tình hình doanh số bán hàng của các đơn vị tham gia Hội chợ được tổng kết chỉ dựa trên số liệu do các đơn vị cung cấp. Không hề chính xác, vì các đơn vị này cũng kê lên cho cao hoặc hạ thấp chứ ko hề nói thật về con số chính xác.

Kết luận: Báo cáo làm quái gì? Đọc cũng như không đọc. Vô ích.

Liên kết kinh tế

- Khu vực mậu dịch tự do: Free Trade Zone - Free Trade Area
- Liên minh thuế quan: Customs Union
- Thị trường chung: Common Market
- Liên minh kinh tế: Economic Union
- Liên minh tiền tệ: Monetary Union

- ECSC: European Coal and Steel Community
- EEC: European Economic Community
- EC: Ủy ban Châu Âu (trong EU)

Các liên minh khác

THỊ TRƯỜNG CHUNG:
Thị trường chung có đầy đủ các yếu tố của hiệp định đối tác kinh tế và liên minh thuế quan, cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, lao động) giữa các nước thành viên.

Một thị trường chung như vậy đã từng được thành lập ở châu Âu vào năm 1957 theo Hiệp ước Rome và mất một thời gian dài mời hoàn thành mục tiêu. Khối ASEAN cũng đã thỏa thuận sẽ thực hiện được mục tiêu một thị trường chung và một cơ sở sản xuất thống nhất trong toàn khối vào năm 2020 trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Xem thêm:
Cộng đồng Kinh tế ASEAN.

LIÊN MINH THUẾ QUAN:
Đây có thể hiểu là một khu vực thương mại tự do giữa các nước thành viên cộng với thuế quan thống nhất của các nước thành viên đối với hàng hóa từ ngoài khu vực. Việc thành lập liên minh thuế quan cho phép tránh được những phức tạp liên quan đến quy tắc xuất sứ, nhưng lại làm nảy sinh những khó khăn trong phối hợp chính sách giữa các nước thành viên.
Xem thêm:
Liên minh Thuế quan Liên minh Châu Âu.

LIÊN MINH KINH TẾ và TIỀN TỆ:
Hội nhập kinh tế đến cấp độ này tạo ra một thị trường chung giữa các nền kinh tế (không còn hàng rào kinh tế nào nữa) với một đơn vị tiền tệ chung. Ví dụ rõ nhất về cấp độ liên minh này là Khu vực đồng Euro.

Các khu vực được thành lập với mục tiêu trở thành liên minh kinh tế tiền tệ nhưng chưa hoàn thành được mục tiêu này gồm: Cộng đồng Kinh tế Tây Phi, Cộng đồng Caribe (tiền thân là Cộng đồng và Thị trường Chung Caribe). Trong các liên minh từng tồn nhưng nay không còn có Liên minh Bỉ-Luxembourg.

Trong lịch sử đã từng có những khu vực dùng một đơn vị tiền tệ chung, như Liên minh Tiền tệ Latinh hồi thế kỷ 19, nhưng họ chưa xây dựng được một thị trường chung nên không gọi đó là liên minh kinh tế và tiền tệ. Lại có một số nước chấp nhận đồng tiền của nước hay khu vực khác làm đơn vị tiền tệ chính thức của mình, nhưng giữa họ không có một thị trường chung, nên không gọi là liên minh kinh tế - tiền tệ.

Hiện nay, tuy Anh tham gia Liên minh châu Âu tức là Anh và các nước khác trong liên minh là một thị trường chung, nhưng vì Anh này vẫn giữ đơn vị tiền tệ riêng là đồng Bảng Anh, nên Anh không tham gia liên minh kinh tế tiền tệ ở châu Âu.

Với một đơn vị tiền tệ chung, các nước thành viên sẽ phải từ bỏ quyền thực thi chính sách tiền tệ riêng của mình, mà thay vào đó là một chính sách tiền tệ chung của toàn khối do một ngân hàng trung ương chung của khối đó thực hiện, như trường hợp của Ngân hàng Trung ương Châu Âu.
Khi mà ngay cả chính sách tài chính cũng được thực hiện chung, hội nhập kinh tế đạt đến độ hoàn toàn.

Hiệp định đối tác kinh tế

Hiệp định đối tác kinh tế là cấp độ hội nhập kinh tế sâu hơn hiệp định thương mại tự do, theo nghĩa là ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa thông qua bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan lại còn bao gồm cả tự do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử giữa các nước ký kết hiệp định.

Nhật Bản là quốc gia có xu hướng thích các hiệp định đối tác kinh tế vì nó cho phép quốc gia này thâm nhập toàn diện vào các thị trường của nước đối tác. Hiện Nhật Bản đã ký kết 8 hiệp định đối tác kinh tế song phương và một hiệp định đối với ASEAN, đang đàm phán để đi tới ký kết 5 hiệp định khác (Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Úc, Thụy Sĩ), có 15 quốc gia, lãnh thổ và khu vực đang có nguyện vọng đàm phán và ký kết hiệp định đối tác kinh tế với Nhật Bản.

Xem thêm: Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP).

Hiệp định thương mại tự do

Là hiệp định theo đó các nước ký kết cam kết bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan cho tất cả hoặc gần như tất cả hàng hóa của nhau. Có thể có những dòng thuế sẽ được bãi bỏ chậm hơn; và người ta thường đưa các dòng thuế này vào "danh sách nhạy cảm". Chỉ một số ít dòng thuế sẽ không được bãi bỏ và được liệt kê trong "danh sách loại trừ".

Quy tắc xuất xứ là một phần quan trọng của các hiệp định thương mại tự do nhằm đảm bảo chỉ những hàng hóa được sản xuất toàn bộ hoặc tối thiểu ở một tỷ lệ nhất định tại các nước thành viên hiệp định mới được buôn bán tự do nhằm tránh tình trạng nước không tham gia hiệp định sử dụng cách tái xuất hoặc chỉ lắp ráp tại một nước tham gia hiệp định mà có thể xuất khẩu sang nước còn lại của hiệp định không phải chịu thuế.

Một hiệp định thương mại tự do nổi tiếng được thành lập từ năm 1960, đó là Hiệp hội Thương mại Tự do Châu Âu. Sau những bế tác của đàm phán tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ GATT, các hiệp định thương mại tự do song phương (giữa hai nước) và khu vực xuất hiện ngày càng nhiều từ giữa thập niên 1990. Và trong số những quốc gia hăng hái nhất trong việc ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương phải kể đến Mexico, Singapore.

Những khu vực thương mại tự do nổi tiếng mới thành lập từ thập niên 1990 điển hình là Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (thành lập năm 1994), Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (hiệp định được ký kết vào năm 1992). Ngoài ra, còn có những hiệp định thương mại tự do giữa một nước với cả một khối, như Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế ASEAN-Trung Quốc (ký kết vào năm 2002).

Do xóa bỏ gần như hoàn toàn thuế quan và hàng rào phi thuế quan, nên việc đàm phán để thành lập một hiệp định thương mại tự do là khá mất thời gian và qua nhiều vòng thương thảo. Những nước hăng hái với tự do hóa thương mại có thể thỏa thuận tiến hành chương trình giảm thuế quan sớm (còn gọi là chương trình thu hoạch sớm) đối với một số dòng thuế trước khi đàm phán kết thúc và hiệp định được thành lập.

Thỏa thuận thương mại ưu đãi

Đây là cấp độ thấp nhất của liên kết kinh tế, theo đó các quốc gia tham gia hiệp định dành các ưu đãi về thuế quanphi thuế quan cho hàng hóa của nhau. Trong các thỏa thuận này, thuế quan và hàng rào phi thuế quan có thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với khi áp dụng cho quốc gia không tham gia hiệp định.

Một ví dụ về thỏa thuận thương mại ưu đãi là Hiệp định về Thỏa thuận Thương mại Ưu đãi ASEAN được ký kết tại Manila năm 1977 và được sửa đổi năm 1995; hay Khu vực Thương mại Ưu đãi Đông và Nam Phi tồn tại từ năm 1981 đến năm 1994; hay như các hiệp định dành ưu đãi thương mại (hay tối huệ quốc) mà một số nước phát triển có thể dành cho các nước đang phát triển.

Các vấn đề đối với GDP

Mặc dù GDP được sử dụng rộng rãi trong kinh tế, giá trị của nó như là một chỉ số vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi. Sự phê phán sử dụng GDP bao hàm các điểm sau:

- Kết quả tính GDP theo các phương thức khác nhau làm người ta bối rối, nhất là khi so sánh xuyên quốc gia.
- GDP, như một chỉ số về kích cỡ của nền kinh tế, nhưng lại không chuẩn xác trong đánh giá mức sống.
- GDP không tính đến
kinh tế ngầm, kinh tế phi tiền tệ như kinh tế trao đổi, các công việc tình nguyện, chăm sóc trẻ em miễn phí do các ông bố bà mẹ (không làm việc) đảm nhiệm hay sản xuất hàng hóa tại gia đình, giá trị của thời gian nghỉ ngơi và ô nhiễm môi trường. Vì vậy, tại các nước mà việc kinh doanh thực thi một cách không chính thức chiếm phần lớn thì số liệu của GDP sẽ kém chính xác.
- GDP không tính đến tính
hài hòa của sự phát triển. Ví dụ một nước có thể có tốc độ tăng trưởng GDP cao do khai thác khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên.
- GDP tính cả những công việc không đem lại lợi ích ròng và không tính đến những hiệu ứng tiêu cực. Ví dụ, một xí nghiệp làm tăng GDP nhưng gây ô nhiễm một con sông và người ta phải đầu tư để cải tạo lại môi trường. Việc này cũng làm tăng GDP. Xem thêm
Truyện ngụ ngôn về cửa sổ gẫy.
- GDP cũng không cho ta sự phản ánh trung thực của sự phân chia lợi ích trong phạm vi đất nước. Có thể có những nhóm người không thu được lợi ích gì từ lợi ích kinh tế chung. GDP cao có thể là kết quả của một số người giàu có đem lại cho nền kinh tế trong khi phần lớn dân chúng sống dưới mức nghèo khổ.


Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng việc tìm một chỉ số khác thay thế GDP cũng rất khó khăn. Một sự thay thế được biết đến là Chỉ số tiến bộ thực sự (GPI) được cổ động bởi Đảng Xanh của Canada. GPI đánh giá chính xác như thế nào thì chưa chắc chắn.

Thành phần của GDP

GDP có thể tính là tổng của các khoản tiêu dùng, hoặc tổng của các khoản chi tiêu, hoặc tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế. Về lý thuyết, dù theo cách tính nào cũng cho kết quả tính GDP như nhau. Nhưng trong nhiều báo cáo thống kê, lại có sự chênh lệch nhỏ giữa kết quả theo ba cách tính. Đó là vì có sai số trong thống kê.
Theo cách tính GDP là tổng tiêu dùng, các
nhà kinh tế học đưa ra một công thức như sau:
GDP = C + I + G + NX

Trong đó các kí hiệu:
- C là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình) trong nền kinh tế.
- I là
đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh doanh. Đây được coi là tiêu dùng của các nhà đầu tư. Lưu ý, đừng lẫn lộn điều này với đầu tư mang tính đầu cơ tích trữ vào thị trường chứng khoán và trái phiếu.
- G là tổng chi tiêu của chính quyền (tiêu dùng của chính quyền). Quan hệ của phần này đối với các phần còn lại của GDP được mô tả trong lý thuyết
khả dụng (có thể đem đi tiêu).
- NX là "xuất khẩu ròng" của nền kinh tế. Nó bằng xuất khẩu (tiêu dùng của nền kinh tế khác đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế trong tính toán sản xuất) - nhập khẩu (tiêu dùng của nền kinh tế trong tính toán đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế khác sản xuất).

Ba thành phần đầu đôi khi được gọi chung là "nội nhu", còn thành phần cuối cùng là "ngoại nhu".

GDP bình quân đầu người

GDP bình quân đầu người của một quốc gia hay lãnh thổ tại một thời điểm nhất định là giá trị nhận được khi lấy GDP của quốc gia hay lãnh thổ này tại thời điểm đó chia cho dân số của nó cũng tại thời điểm đó.

GDP theo Wiki

Trong kinh tế học, tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Khi áp dụng cho phạm vi toàn quốc gia, nó còn được gọi là tổng sản phẩm quốc nội.

Gần đây, trong các tài liệu thống kê mang tính nghiêm ngặt, thuật ngữ tiếng Anh national gross domestic product- NGDP hay được dùng để chỉ tổng sản phẩm quốc nội/ regional (hoặc provincial) gross domestic product hay dùng để chỉ tổng sản phẩm nội địa của địa phương.

GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó.

GDP 1

Có hai cách xem xét số thống kê GDP.

Một mặt, ta có thể xem GDP như là tổng mức thu nhập của tất cả mọi người dân trong một nền kinh tế.

Mặt khác, ta xét GDP như tổng mức chi tiêu của nền kinh tế trên tổng đầu ra sản xuất trong năm về hàng hóa và dịch vụ.

Cách nào cũng nhằm để đo hiệu suất vận hành của nền kinh tế bằng giá trị tiền tệ. Một nền kinh tế có GDP lớn cũng có nghĩa là có sản lượng đầu ra hàng hóa và dịch vụ lớn, và như vậy, nền kinh tế đó có thể thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của các hộ gia đình, công ty và chính phủ.


"GDP là giá trị thị trường của tổng cộng tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một nền kinh tế qua một giai đoạn nhất định."

Sự phức tạp của công việc tính GDP là do phải cộng tổng quá nhiều hàng hóa và dịch vụ cuối cùng sản xuất ra trong nền kinh tế. Chuối, cam, táo, xe ô-tô, dịch vụ cắt tóc, ngân hàng...

Nhưng nền kinh tế còn có cả những hàng hóa đã qua sử dụng (đồ cũ), ví dụ người sưu tầm đồng hồ Omega ở Hà Nội có thể bán một chiếc Omega cũ với giá 2000 đô-la Mỹ (hay 32 triệu VND vào cuối năm 2007), nhưng số tiền đó không được tính là một phần của GDP. GDP chỉ đo lường giá trị của hàng hóa và dịch vụ mới được sinh ra trong thời gian đó. Bán đồ cũ không được tính vào GDP.

Về nguyên tắc, GDP loại trừ tất cả các quy đổi về giá trị tạo ra của "nền kinh tế ngầm." Nền kinh tế ngầm là một phần của mọi nền kinh tế quốc gia, nhưng được che dấu, không khai báo, hoặc nhằm mục đích trốn thuế (ví dụ, kinh doanh bất động sản không khai báo) hoặc là hoạt động đó bị pháp luật cấm hoàn toàn (ví dụ, buôn bán ma túy).

Quan hệ kinh tế Nam Bắc

Mang tính hợp tác và đối thoại tăng lên nhưng vẫn đối lập gay gắt.

Thực chất quan hệ kinh tế Nam Bắc là quan hệ kinh tế giữa các nước phát triển (Bắc) và các nước đang phát triển (Nam).

Chiều hướng tích cực:
- Hỗ trợ hợp tác cùng giải quyết các vấn đề kinh tế mang tính toàn cầu: Mở rộng thị trường, Di dân. Năng lượng. Hiệu quả phát triển kinh tế, môi trường...

Chiều hướng tiêu cực:
- Mâu thuẫn có liên quan đến sự bình đẳng trong phát triển: nợ nần, chính sách bảo hộ mậu dịch mang lại lợi nhiều hơn cho các nước công nghiệp phát triển, các vấn đề sinh thái, môi trường, áp đặt chính sách kinh tế...

Học Anh Văn thế nào?

Học từ theo chủ đề
Hãy học những từ có liên quan đến nhau. Nếu đang học từ miêu tả miền quê, thí dụ như valley (thung lũng), stream (dòng suối), meadow (đồng cỏ) thì đừng lẫn với các từ miêu tả các thứ ở thành phố (ví dụ như fire hydrant - vòi nước chữa cháy) hoặc những từ miêu tả tính cách. Những từ liên quan với nhau thường cùng xuất hiện và sẽ dễ hơn khi nhớ chúng chung với nhau.

Học từ vựng trong những lĩnh vực yêu thích
Nếu quan tâm về nghệ thuật hoặc bóng đá, hãy đọc về những đề tài này. Có lẽ trong tiếng mẹ đẻ bạn biết rất nhiều từ miêu tả một bức tranh, một trận đá bóng nhưng bạn lại không biết trong tiếng Anh chúng gọi là gì - hãy tìm thử xem! Hãy nhớ rằng những gì bạn thích là những điều bạn muốn nói về và là một phần của con người bạn - nếu không biết cách diễn đạt chúng, việc này có thể làm bạn lo lắng đấy.

Hãy có một cuốn từ điển hình ảnh
Nó sẽ giúp bạn nhớ từ mới dễ dàng hơn thông qua việc nhìn tranh của chúng.

Sử dụng video
Lần tới khi xem một bộ phim bạn hãy ghi lại bằng tiếng Việt 5 hoặc 10 đồ vật bạn nhìn thấy nhưng lại không biết từ tiếng Anh của chúng là gì. Tra những từ này trong từ điển, rồi xem lại bộ phim, luyện tập cách sử dụng chúng. Một lần nữa chúng ta lại thấy rằng nhớ một cái gì đó thật dễ dàng nếu ta nhìn thấy hình ảnh của nó.

Thu một cuốn băng từ vựng
Trong khi bạn đi bộ, đến trường hay đợi xe bus bạn hãy nghe cuốn băng đó. Đầu tiên nói từ đó bằng tiếng Việt, dừng lại sau đó nói từ đó bằng tiếng Anh. Khoảng dừng này sẽ cho bạn thời gian để trả lời trước khi xem câu trả lời chính xác.

Mua một cuốn từ điển các từ xếp theo nghĩa
Đó là tập hợp các từ đồng nghĩa và trái nghĩa. Cố gắng sử dụng nhiều từ khác nhau. Dĩ nhiên đôi lúc bạn sẽ dùng một từ không phù hợp, nhưng điều này không ngăn trở bạn sử dụng cuốn sách hữu ích này cho việc xây dựng một vốn từ vựng phong phú.

Luyện tập từ mới khi viết bài luận
Nếu bạn có bài tập viết về nhà hãy lấy ra các từ mới mà mình đã học sau đó cố gắng sử dụng chúng vào bài viết của mình. Nếu không sử dụng các từ mới học lúc nói hoặc viết bạn sẽ nhanh chóng quên chúng đấy.

Luyện tập từ mới khi làm bài tập ngữ pháp
Đừng lãng phí những cơ hội quý báu sử dụng vốn từ bạn vừa học.

Luyện tập từ mới khi nói
Liệt kê khoảng 5 từ mới mà bạn định sử dụng trong lớp. Cố gắng dùng chúng trong các cuộc thảo luận. Tin tôi đi, bạn sẽ tìm ra cách để lái câu chuyện theo cách mà bạn có thể sử dụng ít nhất một vài trong số những từ này.

Hãy đọc nhiều
Đọc nhiều không những có thể cải thiện kĩ năng đọc mà bạn còn có thể xây cho mình một vốn từ vựng phong phú. Trong bài đọc thường có nhiều từ liên quan đến nhau và bạn có thể dùng những từ đã học để đoán nghĩa của những từ mới.

Nếu biết cách “chế biến” thì bạn sẽ có một “món” từ vựng ngon lành và bổ dưỡng đó. Chúc bạn học tốt môn Tiếng Anh!

Tương quan giữa giá cả và mức cầu

Mỗi mức giá mà công ty có thể đặt ra cho sản phẩm sẽ dẫn đến 1 mức cầu khác nhau.

Trong trường hợp thông thường, mức cầu và giá cả có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. (đồ thị mức cầu demand schedule cho thấy: giá càng cao, mức cầu càng thấp và ngược lại). "the higher the price, the lower the demand"

Riêng đối với sản phẩm UY TÍN, giá tăng, số lượng bán ra lại có thể tăng, vì người tiêu dùng tự giải thích rằng sản phẩm đó là TỐT HƠN, nên họ sẵn sàng chi trả với mức cao hơn.

Các yếu tố tác động đến sự nhạy cảm với giá

Đường cầu (demand curve) cho thấy mức tiêu thụ của thị trường (market's purchase rate) tương ứng với các mức giá khác nhau.

ĐỂ NGƯỜI MUA ÍT NHẠY CẢM HƠN VỚI GIÁ, Phải tìm hiểu các yếu tố tác động đến các mức nhạy cảm của người mua hàng: gồm 9 yếu tố

- Tác dụng của giá trị độc đáo (unique - value effect): khi sp độc đáo.
- Tác dụng của mức độ biết đến sản phẩm thay thế (subtitude - awareness effect): khi họ ít biết đến các sản phẩm thay thế cho sp đó.
- Tác dụng của việc khó so sánh (difficult - comparison effect): khi họ không thể dễ dàng so sánh về phẩm chất của các sản phẩm thay thế nhau.
- Tác dụng của tổng số tiền chi tiêu (total expenditure effect): khi số tiền chi tiêu càng nhỏ so với thu nhập của họ (income)
- Tác dụng của lợi ích sau cùng (end benefit effect): khi số tiền chi tiêu càng ít so với tổng chi phí của sản phẩm cuối cùng.
- Tác dụng của chia sẻ chi phí (shared cost effect): khi một phần chi phí do 1 bên khác gánh chịu, tức là dễ dàng mua.
- Tác dụng của đầu tư bổ sung (sunk investment effect): khi sp dùng để kết hợp với các tài sản đã mua từ trước, tức là đồng ý mua.
- Tác dụng của giá cả - phẩm chất (price - quality effect): khi sp được xem là có 1 phẩm chất cao hơn, uy tín hơn.
- Tác dụng của lượng dự trữ, tồn kho (inventory effect): khi không thể dự trữ sp đó.

Phân tích hòa vốn

Phân tích hòa vốn cho bạn biết bạn cần bán ra bao nhiêu đơn vị hàng hóa để lấy lại vốn đầu tư cố định. Nói cách khác, tại điểm nào bạn sẽ có sự cân đối dòng tiền do sản phẩm, dịch vụ mới mang lại. Với những thông tin có được, bạn có thể xem xét nhu cầu thị trường và thị phần của đối thủ cạnh tranh để xác định liệu mong muốn bán nhiều như vậy có thực tế không. Phân tích hòa vốn còn giúp bạn tính đến tác động của sự thay đổi giá và số lượng hàng hóa.

Đặc biệt hơn, tính toán hòa vốn giúp bạn quyết định mức sản lượng mà tại đó tổng khoản tiền thu được sau thuế từ một sản phẩm hay một khoản đầu tư trang trải được tổng chi phí cố định của nó. Nhưng trước khi thực hiện tính toán này, bạn cần hiểu một số khái niệm sau:

+ Định phí: Chi phí bỏ ra hầu như luôn cố định cho dù bạn có bán được bao nhiêu sản phẩm hay dịch vụ đi chăng nữa. Đó là những chi phí như bảo hiểm, lương nhân viên quản lý, các khoản thuê… Ví dụ, tiền thuê cơ sở sản xuất và chi phí bảo hiểm là như nhau cho dù công ty làm ra 10.000 hay 20.000 đơn vị hàng hóa.

+ Biến phí: Những chi phí này sẽ thay đổi tùy thuộc vào số lượng hàng hóa được sản xuất và bán ra, ví dụ như phí thiết bị, nhân công và nguyên liệu sản xuất. Bạn sản xuất ra càng nhiều hàng hóa thì bạn càng tốn nhiều chi phí.

+ Lãi biên tế: Là số tiền mà mỗi đơn vị hàng hóa bán được góp phần trang trải cho định phí. Nó được xác định bằng cách lấy doanh thu thuần của một đơn vị trừ đi biến phí (hay chi phí trực tiếp) trên mỗi đơn vị. Với những khái niệm được định nghĩa trên đây, chúng ta có thể làm một phép tính để tìm ra đáp án cho biểu thức sau:

Lượng hòa vốn = Định phí/Lãi biên tế của đơn vị hàng hóa

Để thấy được sự phân tích hòa vốn trong thực tế, chúng ta hãy xem ví dụ máy ép nhựa được dùng để sản xuất giá treo cho Công ty Amalgamated. Chi phí máy ép nhựa này là 100.000 USD. Giả sử mỗi giá treo được sản xuất ra từ máy ép này được bán với giá 75 USD, và biến phí cho mỗi đơn vị sản phẩm sẽ là 22 USD.
Như vậy:
75 USD (Đơn giá) - 22 USD (Biến phí cho mỗi đơn vị) = 53 USD (Lãi biên tế cho mỗi đơn vị)

Do đó: 100.000 USD (Tổng đầu tư cần thiết) / 53 USD (Lãi biên tế cho mỗi đơn vị) = 1.887 giá treo

Phép tính trên cho ta thấy rằng Công ty Amalgamated phải bán 1.887 cái giá treo để hòa vốn đầu tư 100.000 USD. Lúc này, công ty phải quyết định xem liệu có thể đạt được lượng hòa vốn này không. Liệu có thực tế khi trông đợi bán được 1.887 cái giá treo đó, và nếu được thì mất thời gian bao lâu?

Điểm hòa vốn

Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó Tổng doanh thu bằng Tổng chi phí. Hay nói cách khác thì tại điểm hòa vốn, doanh nghiệp bắt đầu thu được lợi nhuận.

Xác định điểm hòa vốn nhằm:
- Thiết lập một mức giá hợp lý
- Đạt mục tiêu hiệu quả nhất trong khi kết hợp giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi.
- Để xác định thu hút và phân bổ tài chính trong các chiến lược khác nhau trong doanh nghiệp.
- Được sử dụng trong phân tích tính hiệu quả của dự án kinh doanh.

Công thức tính:
Q = FC / (Po - Vc)

Trong đó:
- Q: Là sản lượng hòa vốn
- Fc: Chi phí cố định
- Vc: Chi phí biến đổi trên mỗi đơn vị sản phẩm.
- Po: Giá sản phẩm.

Ví dụ: Doanh nghiệp A sản xuất bóng đèn, chi phí cố định là 10 000$. Chi phí biến đổi trên mỗi sản phẩm là 10$. Giá bán mỗi sản phẩm trên thị trường là 30$. Vậy doanh nghiệp đạt điểm hòa vốn tại mức sản lượng là: Q = 10 000 / ( 30 - 10) = 5 000 ( bóng đèn).

Mystery shopping

Mystery shopping - Người Mua Hàng Bí Ẩn: là chương trình kiểm soát chất lượng phục vụ, kỹ năng bán hàng, cách thức nhân viên trò chuyện với khách hàng trực tiếp và qua điện thoại, đồng thời cũng là công cụ trợ giúp đắc lực trong việc đánh giá chất lượng sản phẩm, tổ chức gian hàng và nhiều yếu tố liên quan khác.

Hình thức Mystery shopping được áp dụng rộng rãi ở các công ty thực phẩm, hệ thống trạm xăng, dịch vụ giao nhận bưu kiện, các cửa hàng xe hơi…, nói chung là bất cứ công ty nào kinh doanh sản phẩm/dịch vụ đều có thể sử dụng biện pháp này. Đặc biệt, các công ty có mạng lưới bán lẻ thường coi đây là cách kiểm tra đơn giản và hiệu quả trong các chương trình giám sát hoạt động của các cửa hàng.

Theo kết luận của các công ty đang tích cực áp dụng phương pháp mystery shopping, doanh số bán ra trong giai đoạn tiến hành các hoạt động này tăng lên từ 2-3 lần.

Hiện nay, mystery shopping đã trở thành một nền công nghiệp nhỏ tạo công việc và thu nhập khá cao cho hàng trăm ngàn người. Tại Mỹ có gần 500 văn phòng cung cấp những “người mua hàng” này cho các đơn vị có nhu cầu với kim ngạch hàng năm vào khoảng 500-700 triệu USD. Hiệp hội nhà cung cấp dịch vụ mystery shopping quốc tế (MSPA) cũng không ngừng tích cực hoàn thiện và phát triển hệ thống các tiêu chuẩn về đạo đức và chuyên môn của phương pháp này.

Mystery shopping là công tác nghiên cứu thị trường, có nhiệm vụ đánh giá hoạt động của bộ phận bán hàng và dịch vụ khách hàng của công ty bằng cách cử những “khách hàng bí mật” (mystery shoppers) trà trộn trong số khách hàng thực sự đến cửa hàng, quầy hàng hoặc văn phòng để tìm hiểu. Phương pháp này bao gồm sự giám sát đã được tiêu chuẩn hóa kèm theo những đánh giá thẩm định khắt khe.

Những người thực hiện mystery shopping thường ẩn danh và nhân viên không thể nào đoán ra được anh ta/cô ta đang bị kiểm tra. Chính những cuộc viếng thăm mang tính chất bí mật và bất ngờ đó đã mang lại cho phương pháp này hiệu quả tối ưu.

(Ở VN, Chinsu đã từng làm. Nhưng ko phải để kiểm tra nhân viên. Mà khéo léo hơn, họ chuyển đổi cách thức, vẫn dùng "Người mua hàng bí ẩn", họ loan tin rộng khắp cho các cửa hàng thông qua nhân viên bán hàng, rằng ai giới thiệu về sản phẩm Chinsu mới nhiều, nhiệt tình, sẽ bất ngờ được tặng thưởng 1 phần quà giá trị. Từ đó, các cửa hàng bán Chinsu gặp ai cũng giới thiệu lôi kéo khách hết sức nhiệt tình... làm tăng doanh số.)

Những nguyên nhân cần thiết để công ty quyết định thực hiện mystery shopping:
1. Các đối thủ cạnh tranh bán được nhiều hàng hơn. Cửa hàng của đối thủ, nằm ở phía bên kia đường, mua vào lượng hàng lớn gấp đôi và với giá bán lẻ tương đương vẫn có thể bán được hàng nhiều hơn. Tại sao vậy? Có thể không chỉ nhờ vào tính chuyên nghiệp của nhân viên bán hàng, mà còn do chương trình ưu đãi dành cho khách hàng trung thành mà đối thủ đang sử dụng chăng?

2. Khách ghé thăm nhưng rồi quyết định không mua gì. Gian hàng lúc nào cũng đông người, điện thoại liên tục reo vang từ những khách hàng tiềm năng biết đến công ty nhờ quảng cáo. Nhưng doanh số bán hàng lại sụt giảm đáng kể. Nguyên nhân có phải là do sự mệt mỏi của nhân viên hay do sự thờ ơ với khách hàng, hoặc là do số lượng quầy tính tiền quá ít không đủ để phục vụ khách hàng?

3. Nếu được lựa chọn, khách hàng thường mua món hàng rẻ nhất. Những món hàng có giá trị cao đang nằm trên giá và bị bụi phủ đầy, cho dù chương trình khuyến mãi đang tiến hành.

4. Quảng cáo không đem lại kết quả mong muốn. Ngân sách dành cho quảng cáo ngày một tăng lên nhưng vẫn không gây được tác động nào đáng kể. Nguyên nhân của hiện tuợng này có thể do đối thủ cạnh tranh hoạt động tích cực hơn, hay là sự không phù hợp giữa quảng cáo và thực tại về sản phẩm và cửa hàng, hoặc có thể do cách phục vụ kém cỏi của nhân viên bán hàng.

5. Nghi ngờ về tính trung thực của nhân viên. Giả sử lãnh đạo công ty nghi ngờ có người trong số các nhân viên đang có hành vi gian dối, nhưng chưa biết làm cách nào để bắt quả tang. Ví dụ, một nhân viên bán hàng bị nghi ngờ giới thiệu cho đối thủ cạnh tranh một số khách hàng của công ty và nhận hoa hồng từ doanh số bán hàng của đối thủ, đồng thời vẫn nhận lương tại vị trí làm việc của anh ta. Không thể khiển trách và đuổi việc nhân viên nếu không có đủ chứng cứ. Người này sẽ nói rằng sự nghi ngờ của giám đốc đối với anh ta chỉ là một trò đùa ác ý và chỉ một thời gian ngắn sau anh ta sẽ trở lại trong sạch.

6. Có rất nhiều lời chê trách từ phía khách hàng. Mỗi khi có lãnh đạo đến kiểm tra cửa hàng, thì tất cả nhân viên đều tỏ ra hết sức quan tâm đến khách hàng và thể hiện sự hiểu biết cặn kẽ về các mặt hàng đang kinh doanh. Trong lúc đó, giám đốc vẫn thường xuyên phải nghe những lời phàn nàn về phong cách phục vụ của nhân viên tại các quầy hàng. Như vậy, hoặc là đối thủ đang bán được nhiều hơn rõ rệt, mặc dù nhìn bên ngoài thì cả hàng hóa, nhân viên, cửa hàng và cả chính sách giá của cả hai công ty là như nhau.

7. Không hài lòng về hoạt động của nhà cung cấp hoặc đại lý. Những người cùng kinh doanh đều đồng thanh khẳng định rằng khách hàng đang dần bỏ đi, giá bán quá cao, kho hàng không cung cấp đúng chủng loại cần thiết…Tuy nhiên, có vẻ như cũng với những mặt hàng và mức giá đó mà đối thủ vẫn đảm bảo được mức tăng trưởng ổn định. Nguyên nhân vì sao? Không ai biết.

8. Khách hàng không gia hạn thêm hợp đồng hoặc không quay lại nữa. Tưởng rằng một người du lịch hài lòng sẽ phải quay lại công ty lữ hành, nhưng không rõ vì lý do gì anh ta lại chuyển sang công ty đối thủ. Cửa hàng bán máy tính, còn trung tâm dịch vụ bố trí ngay tầng trên lại vắng khách.

9. Khách hàng không sử dụng các tiện ích đi kèm. Không có khách hàng nào muốn mua thêm tấm vải phủ khi họ mua đồ gỗ, không nhờ đến dịch vụ vận chuyển và lắp ráp khi mua món đồ điện tử phức tạp… Sẽ hoàn toàn hợp lý nếu khách hàng mua chổi quét sau khi mua hộp sơn, nhưng không hiểu tại sao khách hàng lại không mua.

10. Các chương trình kích cầu không phát huy hiệu quả. Giảm giá, tặng quà may mắn…không làm cho lượng khách tăng lên, không thể khiến họ trở lại mua hàng lần sau, phần lớn khách hàng từ chối tham gia vào các chương trình đó hoặc họ không đến theo lời mời.

CIP - Hệ thống nhận diện thương hiệu

CIP (Corporation Identify Program) Là hệ thống nhận diện thương hiệu toàn diện, nhằm chuẩn hoá hình ảnh của thương hiệu, chuẩn phối hợp màu sắc, font chữ, kích thước để thương hiệu luôn có sự đồng nhất trong thiết kế tạo ra những đặc điểm riêng giúp phân biệt thương hiệu mình với hàng ngàn thương hiệu khác.

CIP bao gồm: Là các ấn phẩm quảng cáo như Logo, poster, brochure, leaflet, banner, streamer, letter, guidebook, Name Tags, Name card box, Mediabackup, Folder, Flag, coaster and glass, DVD & Cover DVD……được tập hợp từ những ý tưởng sáng tạo để thể hiện định vị thương hiệu.

CIP mạnh phải có một ý tưởng cụ thể, khác biệt, dễ nhớ, đáng tin cậy, uyển chuyển, linh động và phải thể hiện được một bản sắc Văn hóa riêng. Điều cần thiết để phát huy tính hiệu quả của một HTND Thương hiệu là tính đại chúng.

Thay đổi giá

Không có sản phẩm nào có giá không đổi trong suốt vòng đời sản phẩm. Do đó đôi khi bạn phải thay đổi mức giá. Nhưng trước khi làm điều đó thì phải đánh giá tác động của sự thay đổi giá tới lợi nhuận. Nên xem xét cả các ảnh hưởng của sự thay đổi giá tới doanh số cũng như lợi nhuận cận biên.

Khi tăng giá, tổng lợi nhuận vẫn có thể tăng mặc dù số lượng sản phẩm bán ra giảm.
Khi quyết định tăng giá, bạn phải có một lý do hợp lý để giải thích với khách hàng tại sao bạn tăng giá. Lý do chính đáng cho sự tăng giá có thể là mang lại nhiều lợi ích hơn cho khách hàng, ví dụ có sự cải tiến chất lượng dịch vụ khách hàng hoặc tăng thời gian bảo hành.

Bạn cũng có thể xem xét cách thức để tăng giá ngầm. Ví dụ, có thể giới thiệu các sản phẩm hoặc dịch vụ mới, giá cao với nhiều tính năng hơn hoặc giảm tính năng trong khi giữ nguyên giá. Tuy nhiên, tăng giá ngầm có thể dẫn tới nguy cơ phản ứng bất lợi từ khách hàng nếu họ nhận ra bạn đã thực sự tăng giá mà họ không biết.

Bạn không bao giờ nên thực hiện việc giảm giá nhẹ. Giá thấp thường bị đánh đồng với chất lượng dịch vụ suy giảm, có thể hủy hoại hình ảnh của công ty.

Nên tập trung vào tăng lợi nhuận hơn là giảm giá để tăng doanh số. Nói chung các khách hàng mua hàng hóa hoặc dịch vụ vì lợi ích mà sản phẩm/dịch vụ của bạn mang lại cho họ với mức giá phù hợp chứ không phải chỉ vì giá cả.